Tác giả: Lương Trâm - Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng. Khác
  với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi 
chép  có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như 
những  sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong 
dân  chúng. Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng Quẻ năm hào: Ví dụ: quẻ Giá sắc   Nội dung: Dịch nghĩa: Quẻ sáu hào: Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao) Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.  Lời
  giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có
  lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng 
văn  xuôi. Hai
  loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất 
 cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do 
 sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của
  ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của 
 người xưa. 1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành: a - Sự hình thành Âm dương: Cực Nam Âm
  dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo
  Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật  
Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai
  con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch
  sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày 
càng  gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành 
hình  “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì
 không  thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con 
thạch sùng  có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng 
ra, sau khi  đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, 
đặt trên bàn  cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị 
đã xuất hiện,  hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối
 cùng dính lại  tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng 
được đặt tên là  “cầu lửa”. Qua
  phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản  
nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau,  
tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. 
 Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, 
tất  cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng  
chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì 
 âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ  
phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và 
 dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như :
  Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí 
 bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm
  áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ  
dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu
  âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng  
lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển  
biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi 
 chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng  
tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu 
 dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời  
đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm
  mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều  
bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để
  tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly  
tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương  
thăng, âm giáng. Ví
  dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có  
khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng  
nóng sẽ sinh ra gió. Từ
  bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển
  dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con  
người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát  
quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật,  
trong đó có con người với hành vi của họ. b- Ngũ hành:  Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:  Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người. 2/ Hà đồ – Lạc thư: a - Hà đồ:
 Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời  
ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số  
được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía  
Bắc b - Lạc thư:
 Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con 
 rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7,  
vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải  
mang 6, giữa lưng mang 5 Theo
  các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù 
Hồng  Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị 
ngũ  hành được vận hành theo hướng khắc. 1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí) Từ
  4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ  
tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương,  
cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực  
dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát 
 quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết. Xem
  xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng 
sinh,  bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ 
thủy  sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh 
thổ -  vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu 
sang  đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết 
khí: - Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1 Thứ  tự của bát quái trên 
thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai ,  Kiền , Tốn , Khảm , 
Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính  chất gắn liền với trời
 như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống  này được Trung Hoa 
gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa  không dùng Tiên 
thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải  thích về địa lý,
 phương hướng như sau: - Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy 2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng) Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo Địa  Bát quái, được hiểu 
như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với  trái đất như : địa lý, 
phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như  sau : So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương: Xét  theo bát quái phong 
thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim,  như vậy Hậu thiên 
bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi  đứng ngòai Hà đồ, 
tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không  còn ý nghĩa, do 
vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người  Trung hoa không 
dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà  gọi đó là Bát 
tiết bát quái : - Cấn: Tiết lập xuân, Có  lẽ để thuyết minh cho 
vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này,  thuyết quái truyện viết: “
 Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly.  Trí dịch hồ Khôn. Thuyết
 ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành  ngôn hồ Cấn." - Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông. Đọan  văn khó hiểu trên có
 lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại  diện cho Hoa Hạ là 
Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan  trông coi về khoa 
học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa,  giữa cháu nội 
Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự  bất đồng ý 
kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu  vào núi 
Bát Chu như sau: Cộng  Công là người có 
công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của  Trung hoa được dân 
chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là  Hậu thổ cũng có năng
 lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần  tức thần đất, là các
 thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng  tình hình đất ở 9 
châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy  nhiên ý đồ này 
không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc  đầu vào núi Bát 
Chu. Bát  Chu là núi Côn Lôn, 
ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm  tầng mây. Sau cú húc 
mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập  ngay, đất đá lở xuống 
ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng  như xảy ra động đất,
 bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi  này chính là cây 
cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời  từng khúc, do đó
 phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho  sông ngòi đều 
theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời  khi đó 
nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt  trăng 
ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây.... Phân  tích câu truyện trên
 có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm  dây chằng đất (Khôn) 
đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục  thẳng ; phía Đông nam 
(Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc  (Càn), có nghĩa là 
trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là  Càn-Khôn-Cấn-Tốn 
trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là  mặt trời lại mọc ở 
phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.  Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu? Bởi  vì núi là tượng Cấn. 
Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói  là Cộng Công húc đầu 
vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của  tộc Chu cho đúng với 
vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm  trọng, vì sau đó 
những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về  chuyện bị “trời 
sập”.  Tư  Mã Thiên cho rằng Hậu 
Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do  trong các quẻ bói mà 
người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến  những vấn đề liên quan
 đếnVăn Vương như: Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :  Về  nguồn gốc Kinh dịch, 
một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không  thực sự là của Trung 
quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các  từ thóan tượng đều 
lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim  hồng). Thêm vào đó, ở 
Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho  người ta cảm thấy 
Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và  ra đời sau khi 
Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”. Gần  đây khảo cổ học đã 
khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang  có niên đại cách 
đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người  Hòa Bình ở di chỉ
 Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên  phía Bắc đến di 
chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này  bị ngập mặn do 
nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên  của người Hàn 
Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị  họ Fuxi, có 
lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ  phía Tây đến 
thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra  Tộc Khương 
còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu  chai), Phù 
nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó  có thể Tộc
 Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông  Nam Á để 
phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba  mẫu 
ruộng. Ở  Trung Hoa vào thời Phục
 Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm  dương và sự vận động của 
nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát  triển nông nghiệp. Trong 
kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông  trời, trông đất, trông 
vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ  Phục Hy không chỉ vẽ 
quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa  để theo đó mà trồng
 trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì  họ Thần Nông đã 
phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng  để cải tiến và 
phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần  Nông đã từng 
vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng  và địa lý 
phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ. “Bói  diệc” là lọai sách 
bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông  lịch đã được giải 
thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung  quốc, được dựa 
vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của  các ẩn sĩ ở Giang
 nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai  sách triết , trong
 bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với  trời đất không 
được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền  người Việt thường
 sử dụng. Một  điều rõ ràng là việc 
sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên  Địa Nhân không phải từ 
trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều  người được tích lũy từ 
thời đại này sang thời đại khác do đó trong những  ghi chép của người 
xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của  học thuyết này. Việc 
cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và  Khổng Tử biên sọan 
thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử  là một người đã từng
 nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử  lấy từ đâu ra thì 
không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử  chưa thực sự 
nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và  mời một người 
họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù  thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị”
 ý  nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không 
giành  được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng 
đường  đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu 
dịch. Tuy  nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh
 dịch là  hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất 
Trung hoa  đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những 
tinh hoa  của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch 
pháp nhà  Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân 
Thương lên  thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu 
lấy tháng Tý  làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu 
năm. Đến thời Hán  các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ 
lụt đều xảy ra khác  với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư 
mã Thiên đến Giang  nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô 
tặng cho bộ sách trúc  giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ 
“nhật thư” bí truyền của  người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã
 Thiên, truyền chiêu mộ ẩn  sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo 
phương pháp của nhà Hạ, sau  khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ. Để giải thích, Chu Hy viết: “Về
  cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi  
nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh  
sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ  
giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung  
Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà  
Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi  
nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với  
đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là
  Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính  
nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh  
sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa 
 nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy  
kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm” Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt. Như  vậy đã có một số 
người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường  tồn, không bị diệt
 vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là  nước Trung quốc. 
Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở  Trung hoa không có 
tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng : Nguồn: www.e-cadao.comChu dịch và kinh dịch
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
Thả thủ quân tử phận.              Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.          Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn             Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên            Làm lành vậy mới yên
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán:
 Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn.  
Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến
  mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận  
như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.
Thái
  cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần  
dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương  
và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương  
được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh,  
lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy  
nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và 
 bên phải chủ âm.
Cực Bắc
Hình lưỡng nghi
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm
Hình tứ tượng
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
Ngũ hành tương sinh : 
Thủy sinh Mộc 
- Mộc sinh Hỏa 
- Hỏa sinh Thổ 
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy 
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
- Thiên:
 Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất ,  
Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không 
 gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ;  
Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển  
dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu  
vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày,
  giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của 
từng  người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời 
gian  được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ 
gồm :  Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa 
được  cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người 
xưa  hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động 
hài hòa  của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu 
tố này ở  một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp 
trở ngại  và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người 
luôn luôn bị  chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn 
nhau, con người  muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng
 giữa bản thân  với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa 
Nhân, là thế giới  của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới 
giữa hai mặt đối  lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được 
chuyển động đó  người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là
 âm, dương (  lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ 
tượng, lại  tiếp tục vận động thành ra bát quái
 
Hà
  đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có
  nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc 
thư,  thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc
 thư  ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử 
là  Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ 
biến. 
Căn  cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì 
Trần Đòan đã  truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý
 Khái truyền  cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc 
Xương truyền cho  lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra
 “ Dịch số câu ẩn  đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến.
 Cho đến nay người  ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở 
Hoa Sơn là Trần Đòan  đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau
 khi Hà đồ-Lạc  Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một 
số người không  tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho 
rằng : “đầu độc  sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có 
nhỏ”. Cuộc tranh  luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm 
chí đến sau ngày  giải phóng.
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà
  đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều  
hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc 
 sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = 
hạ  sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.
Hình Hà đồ
Hình Lạc thư
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát
 quái  phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh 
thì muôn  vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau 
không ngừng  của đạo dịch. 
Thử vẽ Bát quái:
Bốn mùa 
 

 

- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8 
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9 
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
Ví dụ: Địa Bát Quái
Hậu Thiên bát quái
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim 
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí 
 
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn
  vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc  
đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật
  cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương 
nam  mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. 
Khôn là  đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc
 ở Khôn.  Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở
 Đòai.  Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương 
xô xát  vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật
 đều ở  đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật 
thành ở  lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau: 
Vấn
  đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1
  của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu 
 nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên  
bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, 
 về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
-
  Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai  
phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
-
  Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn  
phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao
  hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa 
 trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền. 
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành. 
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo http://xemtuong.net/img/www.uglychinese.org
 thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó 
 họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi (  
Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong
  (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy. 
Theo truyền thuyết cũng như  
thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ;
  họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút 
 kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; 
họ  Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc.
 Đó  chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát 
minh  ra những gì.
Với các chi  tiết đã 
trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và  thuyết 
Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó  được ra 
đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan  thời tiết 
và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề  nông , 
các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc  đẩu. 
Như
  vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào 
thời  Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ 
 trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài  
Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng
  lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn
  vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng 
chính  quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, 
giáo  hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán 
Cao tổ  Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các
 bậc đế  vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ 
chưa ai cao  hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền 
gỉả, bậc trí  nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay
 ta lấy sự  linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành
 người một  nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn 
mà không bị  diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một
 mình. Hiền  sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển
 họ”. 
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net) 


