
 
                         Tiện đây ăn một miếng trầu       "Đầu trò tiếp khách" là trầu,   ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới "Bác đến chơi nhà ta với   ta" - Trầu vàng nhá lẫn trầu   xanh Mời trầu không ăn thì trách móc   nhau: - Đi đâu cho đổ mồ   hôi     Khi đã quen hơi bén tiếng, trai   gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà   tán tỉnh: - Từ ngày ăn phải miếng   trầu     "Có trầu, có vỏ, không vôi" thì   môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì "có chăn, có chiếu không người năm   chung". - Cho anh một miếng trầu   vàng     Miếng trầu không đắt đỏ gì "ba   đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng trầu nên dâu nhà   người". - Ăn trầu thì mở trầu   ra     Các cụ càng già  càng 
nghiện   trầu, nhưng không còn răng nên "đi đâu chỉ những cối cùng chày"
 (Nguyễn Khuyến).   Cối chày giã trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng 
cau, miếng trầu, miếng vỏ   nhưng trạm trổ rất công phu, ngày nay không 
còn thấy có trên thị trường nên các   cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ.
              Hỏi rằng quê   quán ở đâu chăng là
            
            Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự   cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu ra thành mười".
            
            Đặc biệt "trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai   gái:
"Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều lòng   bạn lứa".
              Duyên em sánh với tình anh tuyệt   vời.
              Chiếu trải không ngồi trầu để không   ăn.
              - Thưa rằng bác mẹ tôi răn
              Làm thân con   gái chớ ăn trầu người.
              Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
              - Một   thương, hai nhớ, ba sầu
              Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm   hơi.
              Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
              - Yêu   nhau chẳng lấy được nhau
              Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ   già.
            
            Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết   ăn trầu nữa,
 nhất là ở thành phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng,   
sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội 
ngoại. Vì   miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng
 chẳng ai chối   từ
            
            Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ "bùa mê", "bùa yêu"   nên người ta có thói quen:
              Một là thuốc độc hai là mặn   vôi.
            
            Vì trầu cau là "đầu   trò tiếp khách" lại là biểu tượng cho 
sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế   thần, tế gia tiên, lễ tang,
 lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đòi   hỏi phải có mỹ 
thuật, nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa,   "cau
 già dao sắc" thì ngon. Bày trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu 
vào   giữa, đĩa trầu bày 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải 
bưng hai tay.   Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải 3
 là trầu phết một tí   vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên .
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net) 


