
 
                         Mỗi năm cứ đến dịp làng mở hội hoặc 
ngày đại lễ   có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán 
hay một đương cai, làng   đem cờ quạt với phường bát âm đến rước ra 
đình. Những làng trù phú thường sắm đủ   võng lọng rước lão, lão 100 
tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi   võng điều hai lọng
 xanh, lão 80 tuổi vọng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 võng   xanh 
(đòn ống) một lọng. Trai tráng cầm cờ khiêng võng đều nón dấu áo nẹp. 
Đám   rước rất trọng thể. Tại đình làng, nơi giữa thiết
 lập bàn thờ tiên   lão, các quan lão ngồi hai gian bên theo thứ bậc 
tuổi, có làng yến cả lão bà thì   gian trái lão ông ngồi, gian bên phải 
lão bà ngồi. Tuỳ theo lệ làng, có nơi lão 
90 tuổi hoặc lớn   hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất, có nơi chưa đến 60 
tuổi đã là bậc cao niên   nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất. Tế lão cũng đủ nghi thức như 
tế thần, ba tuần   rượu với văn tế tiên lão, văn chúc thọ quan lão, có 
ban tư văn hành lễ, phường   bát âm tấu nhạc. Lúc tế, quan lão ngồi trước 
những mâm cỗ đặt   giữa chiếu, chỉ uống rượu suông không ăn, là thủ ý 
trang nhã, trịnh trọng đối   với dân làng, ngồi chứng kiến cuộc lễ diễn 
hành và chăm chú nghe văn tế, văn   chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ được 
mang đến từng nhà biếu các cụ. Cỗ yến lão thường là rất 
thịnh hậu cả về phẩm   lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ hai bánh dày, hai bánh 
chưng với những món giò, nem và   nhiều thứ bánh khác làm rất công phu. Chiếu nhất, một cụ ngồi thì 
được biếu cả một cỗ   gọi là cỗ một, chiếu nhì, hai cụ ngồi là cỗ đôi 
thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ,   những cỗ dưới là đồng hạng cứ bốn cụ 
một cỗ. Từ ngàn xưa, những khi có 
việc làng, không hề có   bóng phụ nữ nơi đình trung. Ngày yến, sự hiện 
diện của các lão bà đem lại cho   dân làng một cảm giác đặc biệt vui vể 
đầm ấm. Mỹ tục yến lão là do đạo hiếu
 mà ra, một đặc   tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng hậu, trẻ vui đạo 
trẻ, già vui tuổi già, trái   ngược hẳn với cái thảm cảnh ở mấy nước văn
 minh cường thịnh cứ đến tuổi già là   bị liệt vào hạng người vô dụng, 
ăn hại xã hội, con cháu ít chăm nom, người đời   lạnh nhạt. Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi,
 với cuộc sống buồn   tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi, các cụ hẳn cũng cảm
 thấy sung sướng đã được cả   làng tỏ tình quý trọng, quý trọng rất mực 
trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm,   con cháu các cụ thì được hãnh 
diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho   nên nhiều nhà, dù ngèo
 cũng ráng may sắm cho ông bà đi dự yến. Cụ thì mũ ni nhung đen, áo 
vóc đại hồng, cụ thì   khăn nhiễu tam giang, giầy văn hài, cụ thì áo 
đoạn huyền quần lụa bạch, có những   cụ nhà bần hàn, quanh năm quần nâu 
áo vải lúc này cũng quần chúc bâu, áo the   thâm, áo láng chéo go, dép 
mới thay quai... Y phục tuỳ hoàn cảnh mỗi nhà, không   có lệ định nào, 
chỉ trừ màu vàng của nhà vua, quan dân đều không được   mặc Trước ngực, dưới vòng dây thao quàng cổ là túi   gấm màu lam, màu huyền đựng trầu, thuốc, cối, chày... Đám rước quan lão, y phục màu
 sắc như vậy với   võng lọng cờ quạt, vừa gợi cảm. Những nhà từ mấy đời 
không hề có ông cha được   dự, không khỏi bùi ngùi tiếc thương người đã 
khuất, không khỏi thèm muốn ước   mong cho gia đình đời nay và đời sau.
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Lệ Chi (XemTuong.net) 


